Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 22/4/2024
Chương trình hành động và Kế hoạch của Chính phủ triển khai thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 10/4/2024 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định và phát triển bền vững ngành thủy sản
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 22/4/2024 Chương trình hành động và Kế hoạch của Chính phủ triển khai thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 10/4/2024 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định và phát triển bền vững ngành thủy sản.
Việc ban hành Chương trình nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 10/4/2024 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU) và phát triển bền vững ngành thủy sản (Chỉ thị số 32-CT/TW) khẩn trương khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý, phát triển ngành thủy sản và chống khai thác IUU thời gian qua, đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chủ trương của Đảng về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; các quy hoạch, chiến lược, chương trình quốc gia liên quan đến phát triển bền vững và hội nhập quốc tế ngành thủy sản.
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của chống khai thác IUU và từ đó thay đổi hành động của các cấp, các ngành đối với công tác chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định; nâng cao năng lực quản lý nhà nước và các hoạt động hợp tác quốc tế trong công tác chống khai thác IUU, khẩn trương khắc phục các tồn tại, hạn chế trong công tác chống khai thác IUU...
Đảm bảo không có sản phẩm thủy sản bất hợp pháp xuất khẩu ra nước ngoài
Chương trình đưa ra nhiệm vụ, giải pháp đến tháng 5/2024 gồm: nâng cao hiệu quả công tác thông tin truyền thông, tuyên truyền, tập huấn, vận động, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm đối với công tác chống khai thác IUU; hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan chống khai thác IUU; triển khai đồng bộ, quyết liệt pháp luật về thủy sản trong quản lý đội tàu, kiểm soát hoạt động tàu cá trên biển, tại cảng, xuất, nhập bến phải tuân thủ đầy đủ theo quy định pháp luật; thực hiện nghiêm các quy định pháp luật Việt Nam và quốc tế về xác nhận, chứng nhận và truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác, đảm bảo không có sản phẩm thủy sản bất hợp pháp xuất khẩu ra nước ngoài; điều tra, xác minh, xử lý triệt để các hành vi khai thác IUU, không có trường hợp ngoại lệ; kiên quyết ngăn chặn, chấm dứt tình trạng tàu cá, ngư dân khai thác bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài.
Nhiệm vụ, giải pháp dài hạn là khẩn trương rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực thủy sản, chú trọng chính sách nuôi trồng, khai thác, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, bảo quản, chế biến phục vụ xuất khẩu; có chính sách hỗ trợ hiện đại hóa nghề cá, cải thiện sinh kế, đào tạo nghề, tạo điều kiện cho ngư dân vươn khơi, bám biển, nâng cao cuộc sống, hướng dẫn quản lý lao động nghề cá phù hợp với quy định pháp luật lao động trong nước và quốc tế.
Thực hiện mạnh mẽ giải pháp chuyển đổi nghề, phát triển ngành nghề bền vững
Rà soát, nghiên cứu, tham mưu về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản đối Chi cục trưởng các Chi cục thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có chức năng quản lý nhà nước về thủy sản hoặc thực hiện chức năng, nhiệm vụ về kiểm ngư theo quy định pháp luật trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính để đảm bảo cơ quan chức năng có liên quan đủ thẩm quyền để thực thi pháp luật về thủy sản, chống khai thác IUU.
Đầu tư nguồn lực nhà nước, khuyến khích xã hội hóa, hợp tác công tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng thủy sản; kiện toàn, nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm cho lực lượng Kiểm ngư và các cơ quan chức năng quản lý hoạt động thủy sản, bảo đảm công cụ, phương tiện cho các lực lượng chấp pháp trên biển thực hiện công tác chống khai thác IUU. Thực hiện mạnh mẽ giải pháp chuyển đổi nghề, phát triển ngành nghề bền vững, đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản trên biển, giảm phụ thuộc vào khai thác thủy sản cho ngư dân; đảm bảo số lượng tàu cá và cường lực khai thác phù hợp với trữ lượng nguồn lợi thủy sản trên các vùng biển.
Tạo môi trường thuận lợi cho ngành thuỷ sản phát triển lâu dài
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong nuôi trồng, khai thác thuỷ sản, thiết lập chuỗi sản xuất bền vững, hệ sinh thái toàn diện, tạo môi trường thuận lợi cho ngành thuỷ sản phát triển lâu dài, theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, giảm phát thải, có uy tín, khả năng cạnh tranh cao, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, thích ứng biến đổi khí hậu, thân thiện với môi trường. Đồng thời, chú trọng bảo tồn, bảo vệ, phát triển nguồn lợi thuỷ sản; phát triển ngành thuỷ sản phải gắn với bảo đảm an sinh xã hội, sinh kế bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của ngư dân và người lao động có liên quan; xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh trên biển, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Tăng cường hợp tác quốc tế về thủy sản, đưa tàu cá và ngư dân đi khai thác hợp pháp ở ngoài vùng biển Việt Nam; đàm phán, phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa Việt Nam và các nước, giải quyết các tranh chấp trên biển; tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, đảm bảo an ninh, an toàn cho ngư dân khai thác trên biển; thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam trong thực hiện các cam kết, điều ước quốc tế về bảo vệ đại dương, môi trường, hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản.
Triển khai thực hiện các quy hoạch, chiến lược, chương trình quốc gia liên quan đến phát triển bền vững và hội nhập quốc tế ngành thủy sản; đảm bảo thực hiện có hiệu quả nghị quyết, chủ trương của Đảng về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Phiên họp của Ủy ban Quốc gia Đổi mới giáo dục và đào tạo về "Đổi mới, phát triển giáo dục mầm non đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045"
Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 173/TB-VPCP ngày 22/4/2024 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Phiên họp của Ủy ban Quốc gia Đổi mới giáo dục và đào tạo về "Đổi mới, phát triển giáo dục mầm non đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045".
Thông báo nêu: Đảng và Nhà nước luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, với quan điểm xuyên suốt: con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là nguồn lực và động lực cho phát triển. Giáo dục mầm non có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người Việt Nam. Xây dựng, phát triển con người cần phải đặt nền móng từ những năm đầu đời.
Mạng lưới các cơ sở giáo dục mầm non phát triển rộng khắp
Trong những năm qua, giáo dục mầm non đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Mạng lưới các cơ sở giáo dục mầm non phát triển rộng khắp, đến tất cả các xã, phường, thôn bản trên cả nước, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đưa trẻ tới trường. Việc thực hiện thành công mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo 5 tuổi đã tạo cơ chế, động lực thúc đẩy giáo dục mầm non phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Việc đầu tư cơ sở vật chất trường lớp và đội ngũ giáo viên mầm non, cán bộ quản lý giáo dục mầm non ngày càng được quan tâm (tăng cả về số lượng, chất lượng) thể hiện sự cố gắng rất lớn của Chính phủ, của ngành giáo dục cũng như các cấp, các ngành liên quan. Các chính sách của Chính phủ như: hỗ trợ tổ chức nấu ăn, hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em mẫu giáo vùng khó khăn, hỗ trợ giáo viên dạy lớp ghép và tăng cường tiếng Việt, hỗ trợ trẻ mầm non là con em công nhân... đã góp phần không nhỏ để nâng cao chất lượng giáo dục mầm non.
Tuy nhiên, nhận thức của xã hội về giáo dục mầm non và tầm quan trọng của giai đoạn phát triển đầu đời còn nhiều hạn chế. Giáo dục mầm non còn gặp nhiều khó khăn như tình trạng thiếu trường lớp, thiếu giáo viên, thiếu trang thiết bị dạy học còn chậm được khắc phục; năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên mầm non còn hạn chế đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, và vùng đồng bào dân tộc; các chính sách hỗ trợ cho trẻ em chậm đổi mới và trên cơ sở bảo đảm quyền trẻ em; chương trình giáo dục mầm non chưa được đổi mới theo yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.
Tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3 đến 5 tuổi
Trước nhu cầu phát triển đất nước thời kỳ mới, giáo dục mầm non cần được đổi mới để đáp ứng yêu cầu. Trong đó, mục tiêu là tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3 đến 5 tuổi; đổi mới nội dung chương trình giáo dục mầm non; đặc biệt là cần có cơ chế huy động nguồn lực và các điều kiện để thực hiện đổi mới, phát triển giáo dục mầm non.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế (Nghị quyết số 29) đã khẳng định: "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài".
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tại Nghị quyết ngày 01 tháng 02 năm 2021 tiếp tục khẳng định định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là: "Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài".
Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XII đã đề ra mục tiêu đến năm 2030: "Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo 3 đến 5 tuổi".
Do đó, phải tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó có giáo dục mầm non để tiếp tục hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục và đào tạo và phục vụ cho sự phát triển đất nước ta trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đổi mới giáo dục mầm non phải phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Thực hiện đổi mới giáo dục mầm non phải phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, phù hợp với xu thế phát triển thời đại, phù hợp với thực tiễn, hoàn cảnh của đất nước. Đổi mới giáo dục mầm non phải được đặt trên nền đổi mới tư duy, phương pháp luận, cách tiếp cận tổng thể, bao trùm, có tính toàn diện, toàn dân, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đổi mới phải phù hợp với vai trò, vị trí của giáo dục mầm non, để đào tạo và phát triển toàn diện con người trong tương lai.
Cần rà soát, có sự thay đổi mạnh mẽ về cơ chế, chính sách, cách huy động và phân bổ nguồn lực để tạo nên bước đột phá cho sự phát triển giáo dục mầm non thời gian tới, nhất là các chính sách về thuế, tiếp cận đất đai, tín dụng và vấn đề xã hội hoá. Tích cực tháo gỡ 3 "điểm nghẽn" đối với phát triển giáo dục mầm non là nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất; nhân lực đội ngũ giáo viên; tiếp cận giáo dục mầm non chưa bình đẳng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…; có cơ chế, chính sách huy động nguồn nhân lực cho giáo dục mầm non (chính sách về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non; chính sách thu hút giáo viên mầm non...), đặc biệt quan tâm các chính sách phát triển các cơ sở giáo dục mầm non theo phương thức đối tác công tư.
Để tiếp tục đổi mới, phát triển giáo dục mầm non tương xứng với vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp thu ý kiến của các đại biểu dự họp để tiếp tục hoàn thiện hồ sơ báo cáo Chính phủ việc đề xuất trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo 3-5 tuổi và Nghị quyết về đổi mới Chương trình giáo dục mầm non một cách kỹ lưỡng, chất lượng và đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Hồ sơ cần phải có tổng kết quá trình thực hiện, báo cáo tóm tắt, dự thảo sản phẩm và trong đó lưu ý: làm rõ căn cứ chính trị, pháp lý của việc đề xuất cơ quan có thẩm quyền xem xét ban hành 02 Nghị quyết của Quốc hội; đánh giá thực trạng hiện nay và tác động của các chính sách; có tổng kết quá trình thực hiện và tính toán nhu cầu các nguồn lực về đội ngũ, cơ sở vật chất (số liệu đầy đủ, rõ ràng, có cơ sở); rõ nội hàm đổi mới; đề xuất các giải pháp, cơ chế, chính sách để giải quyết, tháo gỡ những khó khăn; quy định rõ trách nhiệm của Quốc hội, của Chính phủ, của các bộ, ngành, địa phương. Giao Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tiếp tục chỉ đạo nội dung này;
Các Bộ, cơ quan có liên quan và địa phương căn cứ theo chức năng nhiệm vụ được giao chủ động phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, góp phần đổi mới, phát triển giáo dục mầm non.
Ưu tiên bố trí biên chế và tuyển dụng giáo viên mầm non
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch và cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện đổi mới, phát triển giáo dục mầm non trên địa bàn; tiếp tục thực thi đầy đủ và có hiệu quả cơ chế, chính sách và các nhiệm vụ theo các quy định của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước để thu hút nguồn lực, đầu tư phát triển giáo dục mầm non tại địa phương; rà soát, nghiên cứu và đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp để tháo gỡ khó khăn đối với giáo dục mầm non tại địa phương theo đúng quy định của pháp luật và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
Ưu tiên bố trí biên chế và tuyển dụng giáo viên mầm non theo quy định để đảm bảo an toàn cho trẻ em và chất lượng giáo dục mầm non.
Quan tâm bố trí ngân sách đầu tư công giai đoạn 2026 - 2030 phù hợp với các nguyên tắc, tiêu chí bố trí vốn đầu tư công và các nguồn lực khác để xây dựng bổ sung, sửa chữa, cải tạo thay thế phòng học tạm, bán kiên cố bảo đảm an toàn cho trẻ, giáo viên, đặc biệt những khu vực thường xuyên có thiên tai, bão lũ; ưu tiên bố trí kinh phí cho phát triển giáo dục mầm non, đáp ứng yêu cầu huy động trẻ em tới trường và để thực hiện mục tiêu phổ cập; sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí từ các Chương trình mục tiêu quốc gia để đầu tư cho đổi mới, phát triển giáo dục mầm non.
Công
điện của Thủ tướng Chính phủ về vụ tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng tại
Công ty cổ phần Xi măng và Khoáng sản Yên Bái
Thủ tướng
Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 39/CĐ-TTg ngày 22/4/2024
về vụ tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại Công ty cổ phần Xi măng
và Khoáng sản Yên Bái.
Công điện gửi Bộ
trưởng các Bộ: Công an, Xây dựng, Lao động - Thương binh và Xã hội; Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh Yên Bái.
Theo thông tin từ
Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái, vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 22 tháng 4 năm
2024, đã xảy ra vụ tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng trong quá trình sửa
chữa dây chuyền nghiền đá ở Nhà máy xi măng thuộc Công ty cổ phần Xi măng và
Khoáng sản Yên Bái, khiến 07 người tử vong và 03 người bị thương. Nguyên nhân
ban đầu được xác định là do sự cố động cơ điện của máy nghiền đã dẫn đến tai
nạn cho các công nhân đang trực tiếp thực hiện việc bảo dưỡng, sửa chữa.
Ngay khi nhận được
thông tin vụ tai nạn, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo gửi lời thăm hỏi ân cần,
chia buồn sâu sắc nhất đến gia đình, thân nhân người bị nạn; đồng thời chỉ đạo
lãnh đạo tỉnh Yên Bái trực tiếp đến hiện trường vụ tai nạn để chỉ đạo khắc phục
hậu quả và thăm hỏi, hỗ trợ gia đình các nạn nhân trong vụ tai nạn.
Để kịp thời khắc
phục hậu quả và có biện pháp ngăn chặn các vụ tai nạn tương tự, Thủ tướng Chính
phủ yêu cầu:
1. Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh Yên Bái khẩn trương tổ chức thăm hỏi chu đáo, kịp thời hỗ trợ
động viên gia đình các nạn nhân tử vong và làm các thủ tục liên quan đến nạn
nhân tử vong; thăm hỏi, động viên, hỗ trợ các nạn nhân bị thương; đồng thời chỉ
đạo các lực lượng chức năng khẩn trương làm rõ nguyên nhân, khắc phục hậu quả,
ổn định sản xuất, khẩn trương điều tra, làm rõ nguyên nhân vụ tai nạn, làm rõ
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan, xử lý nghiêm vi phạm theo quy
định của pháp luật (nếu có).
Chỉ đạo tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm
các quy định về an toàn lao động trong các hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng
trên địa bàn, tuyệt đối không để xảy ra các trường hợp tương tự.
2. Bộ Công an chỉ
đạo Công an tỉnh Yên Bái phối hợp với các cơ quan chức năng khẩn trương điều
tra, làm rõ nguyên nhân vụ tai nạn, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo
quy định của pháp luật (nếu có).
3. Bộ Xây dựng
phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái
và các cơ quan liên quan chỉ đạo doanh nghiệp rà soát kỹ các quy định, tiêu
chuẩn, quy trình khai thác, chế biến khoáng sản làm xi măng, kịp thời khắc phục
những tồn tại, hạn chế, bảo đảm tuyệt đối an toàn cho người lao động.
Thông báo kết luận
của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tại cuộc họp với lãnh đạo tỉnh Bình Dương về
tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc
Văn phòng
Chính phủ vừa ban hành văn bản 175/TB-VPCP ngày 22/4/2024 thông báo kết luận
của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tại cuộc họp với lãnh đạo tỉnh Bình Dương về
tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc.
Thông báo kết luận
nêu rõ: Kết quả phát triển kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2024 của tỉnh
Bình Dương hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều tăng so với cùng kỳ năm 2023. Tỉnh
đã kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nhất là về đất đai, thủ tục đầu
tư, kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số và đẩy nhanh triển
khai các công trình giao thông trọng điểm trên địa bàn. Tỉnh Bình Dương là một
trong các địa phương đứng đầu cả nước về đóng góp cho ngân sách trung ương, về
thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển thông minh, bền vững.
Bên cạnh kết quả
đạt được, Tỉnh còn một số hạn chế, bất cập, khó khăn, thách thức; trong đó,
công tác hoàn thiện Quy hoạch tỉnh Bình Dương thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến
năm 2050 còn chậm. Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đề nghị Tỉnh Bình Dương khẩn
trương tiếp thu ý kiến của Hội đồng thẩm định Quốc gia, rà soát tổng thể các
quy hoạch liên quan để hoàn thiện Quy hoạch tỉnh, trình phê duyệt theo đúng
thời hạn quy định.
Về một số kiến
nghị của Tỉnh, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chỉ đạo như sau:
Về đầu tư, nâng
cấp một số đoạn tuyến, nút giao của Vành đai 3 - Thành phố Hồ Chí Minh trên địa
bàn tỉnh Bình Dương (gồm Nút giao Tân Vạn; đoạn từ Bình Chuẩn đến sông Sài Gòn;
Cầu Bình Gởi), Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đồng ý về nguyên tắc sự cần thiết đầu
tư, nâng cấp các công trình nêu trên như kiến nghị của Tỉnh.
Phó Thủ tướng Trần
Hồng Hà giao Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương và các
địa phương liên quan rà soát vốn kết dư của Dự án đường Vành đai 3 - Thành phố
Hồ Chí Minh, đề xuất phương án xử lý (bổ sung vào Dự án đường Vành đai 3 Thành
phố Hồ Chí Minh hoặc triển khai bằng dự án riêng); Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng
hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 30 tháng 4 năm 2024, trong đó làm
rõ về nguồn vốn, trình tự thủ tục, thẩm quyền.
Về đầu tư đoạn
15,3Km đường Mỹ Phước - Tân Vạn hiện hữu đi trùng đường Vành đai 3 Thành phố Hồ
Chí Minh đoạn qua tỉnh Bình Dương, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Ủy ban
nhân dân tỉnh Bình Dương thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ tại văn bản
số 9103/VPCP-CN ngày 21 tháng 11 năm 2023 của Văn phòng Chính phủ, đề xuất cụ
thể phương án đầu tư; Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh (cơ quan đầu mối Dự án đường Vành đai 3 Thành phố Hồ
Chí Minh) và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước
ngày 15 tháng 5 năm 2024.
Về đầu tư đường
Vành đai 4 - Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Ủy ban
nhân dân tỉnh Bình Dương triển khai thực hiện theo thẩm quyền đã được Thủ tướng
Chính phủ đồng ý tại văn bản số 1263/TTg-CN ngày 29 tháng 9 năm 2021. Trường
hợp cần có cơ chế, chính sách đặc thù riêng hoặc áp dụng chung cho toàn bộ Dự
án đường Vành đai 4, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì, thống nhất
với Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư và các địa phương liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15 tháng
5 năm 2024 để chỉ đạo, trình cấp có thẩm quyền tương tự như Dự án đường Vành
đai 3 - Thành phố Hồ Chí Minh.
Về mở rộng tuyến
đường nối đường Vành đai 3 với sân bay Biên Hòa (Đồng Nai), Phó Thủ tướng Trần
Hồng Hà thống nhất về chủ trương sự cần thiết đầu tư tuyến đường này để tăng
cường kết nối vùng. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương và Ủy ban nhân dân tỉnh
Đồng Nai rà soát quy hoạch, thực hiện đầu tư theo thẩm quyền, đúng quy định.
Về Quy hoạch, đầu
tư ga liên vận quốc tế Sóng Thần, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà giao Ủy ban nhân
dân tỉnh Bình Dương thống nhất với Bộ Giao thông vận tải trong quá trình lập
Quy hoạch đường sắt khu đầu mối Thành phố Hồ Chí Minh, làm cơ sở cập nhật vào
quy hoạch Tỉnh.
Về việc tích hợp
tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đến Ga An Bình vào quy hoạch phát triển
công nghiệp đường sắt giúp kết nối vùng và bổ sung phương án bố trí vốn cho
Bình Dương triển khai đầu tư, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà giao Bộ Giao thông vận
tải nghiên cứu phương án tối ưu, trên nguyên tắc quy hoạch vị trí ga đường sắt
phải thuận lợi, giảm tối đa chi phí, thời gian trung chuyển, bảo đảm lợi ích
tổng thể và quy định pháp luật; xem xét kiến nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình
Dương trong quá trình hoàn thiện các quy hoạch có liên quan.
Về quy mô quy
hoạch đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Thủ Dầu Một - Chơn Thành đoạn qua
địa phận tỉnh Bình Dương, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Giao thông vận
tải và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương thống nhất quy mô đầu tư Dự án bảo đảm
việc triển khai Dự án thuận lợi, phù hợp quy hoạch được duyệt, đúng quy định.
Về sử dụng phần
tăng thu ngân sách để đầu tư các công trình trọng điểm, Ủy ban nhân dân tỉnh
Bình Dương xác định rõ và khẳng định phương án bố trí nguồn vốn cho cải cách
tiền lương và các đối tượng chính sách xã hội; trường hợp tăng thu ngân sách
còn dư, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo
cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định về việc sử dụng cho đầu tư phát triển,
bảo đảm đúng Nghị quyết 104/2023/QH15 của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà
nước năm 2024 và các quy định pháp luật liên quan.
Về triển khai thực
hiện di dời lưới điện trên địa bàn tỉnh, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà giao Bộ
Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với EVN, các cơ quan liên quan nghiên cứu
hướng dẫn Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương trong tháng 4 năm 2024, bảo đảm thuận
lợi, kịp thời, đúng quy định.
Về triển khai thực
hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm
2050 (Quy hoạch điện VIII), Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Công Thương
xem xét kiến nghị của Tỉnh Bình Dương trong quá trình tổng hợp các dự án của các
địa phương theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 262/QĐ-TTg
ngày 01 tháng 4 năm 2024 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát
triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; khẩn trương
trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định cơ chế khuyến khích phát triển điện
mặt trời áp mái.
Về việc phân chia
dự án thành các dự án thành phần theo Luật Đầu tư công, Phó Thủ tướng Trần Hồng
Hà giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản hướng dẫn trong tháng 4 năm 2024.
Về khu công nghệ
thông tin, khu công nghiệp khoa học công nghệ tại tỉnh Bình Dương, Phó Thủ
tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương chủ động phối hợp Bộ
Thông tin và Truyền thông, Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan liên quan
nghiên cứu, thực hiện theo quy định của pháp luật; rà soát, bổ sung quy hoạch
tỉnh để phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển.
Phó Thủ tướng Trần
Hồng Hà giao Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các nội dung
nêu trên theo chức năng, nhiệm vụ được giao./.