Ninh Bình: Hạ tầng giao thông ngày càng được đầu tư đồng bộ, hiện đại sau 30 năm tái lập tỉnh
Cao tốc Cao Bồ - Mai Sơn mới hoàn thành và thông xe
Quan tâm quy hoạch, xây dựng,
phát triển hạ tầng giao thông
Ngược dòng thời gian trở về 30 năm trước,
khi tỉnh mới tái lập, hạ tầng giao thông khi ấy mới chỉ có 2 tuyến quốc lộ huyết
mạch là QL.1 và QL.10, kết nối tỉnh với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh trong khu vực.
Các tuyến đường liên tỉnh, liên huyện, giao thông đô thị, nông thôn, đặc biệt
là ở các xã bãi ngang ven biển, miền núi, vùng sâu, vùng xa đi lại vô cùng khó
khăn.
Với quan điểm Hạ tầng giao thông phải được
ưu tiên đầu tư trước với tốc độ nhanh hơn, làm tiền đề, tạo động lực cho các
ngành kinh tế khác phát triển. Chính vì vậy, 30 năm qua, cùng với các dự án được
Trung ương đầu tư, Ninh Bình luôn quan tâm quy hoạch, xây dựng, phát triển hạ tầng
giao thông đáp ứng nhiệm vụ phát triển KT-XH. Hệ
thống đường cao tốc đến Ninh Bình dần hình thành, nhiều tuyến đường đối nội, đối
ngoại được đầu tư nâng cấp, mở rộng, xây mới làm thay đổi cơ bản về cơ sở hạ tầng giao thông; tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, góp phần phát huy tiềm
năng của tỉnh.
Ông Lê Trọng Thành, Giám đốc Sở GTVT cho biết: Trong những năm qua, ngành
Giao thông vận tải Ninh Bình đã đầu tư xây mới 15km đường cao tốc Cao Bồ - Mai
Sơn; cải tạo, nâng cấp 150km đường Quốc lộ đạt quy mô cấp III đồng bằng với tổng
kinh phí hơn 18 nghìn tỷ bằng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ với các dự án trọng
điểm như: Nâng cấp, mở rộng QL.1, QL.10, QL.12B, QL.12B kéo dài, QL.38B; đường
QL.1 đoạn tránh TP Ninh Bình, đường nối QL.1 với cảng Ninh Phúc... Đối với đường tỉnh, thực
hiện nhiều dự án với nhiều nguồn kinh phí khác như dự án nâng cấp, cải tạo đường
ĐT.477C, ĐT.477B và cầu Trường Yên, ĐT.479, ĐT.480, ĐT.480B, ĐT.480D... với tổng
chiều dài khoảng 141km. Đồng thời, ngành cũng tham mưu để UBND tỉnh chuyển một
số tuyến đường địa phương, đường đê kết hợp giao thông đã được đầu tư xây dựng
thành đường tỉnh, phục vụ hoàn thiện mạng lưới giao thông, kết nối khu vực.
Trải qua 30 năm
xây dựng và phát triển, mạng lưới đường bộ đến nay
có tổng cộng 3770 km đường được phân cấp, phân loại, bao gồm 08 tuyến Quốc lộ
dài 238km, 19 tuyến đường tỉnh dài 259,5km, đường huyện 349,5km, đường đô thị
374km, đường xã 1378km, đường chuyên dùng 118km, đường đê kết hợp giao thông
219km. Trong
đó hệ thống giao thông nông thôn (đường xã, đường thôn, xóm, nội đồng) chiếm
82%. Tỷ lệ đường giao thông đạt 2,57km/km2, bình quân 3,56km/1000dân
(so với đồng bằng sông Hồng là 1,68km/km2, bình quân 1,7km/1000dân).
Nhiều
cây cầu lớn như Cầu Nam Bình (1.637m), cầu Gián Khẩu (210m), cầu Hoàng Long
(850m)... được đầu tư xây dựng. Đường cao tốc qua Ninh
Bình gồm 02 tuyến cao tốc Ninh Bình – Thanh Hóa (tuyến cao tốc Bắc – Nam) và
tuyến Ninh Bình – Hải Phòng đang được nghiên cứu đầu tư xây dựng sẽ góp phần
nâng cao tốc độ lưu thông, mức độ kết nối với giao thông khu vực. Trên địa bàn
tỉnh có hơn 300km đường cấp III, gần 60km đạt tiêu chuẩn đường cấp II, đô thị;
100% đường Quốc lộ, đường tỉnh đã được cứng hóa bằng Bê tông xi măng, bê tông
nhựa, đá dăm láng nhựa trong đó hơn 50% đã được thảm bê tông nhựa. 100% tổng số xã đã có
đường ôtô đến trung tâm xã, đa phần mọi thôn, xóm, bản, làng cũng đã có đường
ôtô đến được.
Về đường thủy nội địa, có 16 tuyến Đường thủy nội địa với tổng chiều dài gần
300km và hệ thống kênh, vùng ngập nước được khai thác đang có vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội, định hướng phát triển du lịch bằng đường thủy
của tỉnh.
Về đường sắt, có tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy qua dài 21,6km và 2km đường
sắt chuyên dùng phục vụ sản xuất của địa phương.
Kết hợp với hệ thống đường giao thông có 09 bến xe
khách với tổng diện tích hơn 3,4ha tại 05/8 huyện, thành
phố, 1 trạm dừng nghỉ, 4 ga đường sắt,
16 cảng thuỷ nội địa có quy mô vừa và lớn là các điểm đầu mối giao thông liên
kết GTĐB với giao thông đường sắt, đường thuỷ, phát triển logistic. Cùng các
bến phà, đò ngang, bến đò phục vụ tại các điểm du lịch như Tràng An, Tam Cốc -
Bích Động, Vân Long… tạo nên mạng lưới giao thông linh hoạt, đa dạng.
Hạ tầng giao thông đã tác động tích
cực đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Cũng theo ông Lê Trọng Thành, Giám đốc Sở GTVT việc đầu tư hiện đại hạ tầng
giao thông đã góp phần tăng khối lượng hàng hóa và hành khách lưu thông, an toàn,
giảm ùn tắc và tai nạn giao thông, tiết kiệm chi phí và thời gian đi lại: Năm
2020, khối lượng hàng hóa đạt gần 56,4 triệu tấn, tăng 70% so với năm 2010,
bình quân giai đoạn 2011-2019 tăng 5,4%/năm; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt
trên 8.518 triệu tấn, tăng 106% so với năm 2010, bình quân giai đoạn 2011-2019
tăng 7,5%/năm; vận chuyển hành khách đạt hơn 16,7 triệu hành khách, tăng 56,5%
so với năm 2010.
Các tuyến đường
được xây dựng giúp kết nối từ các khu, vùng nguyên liệu đến các khu công nghiệp,
nhà máy sản xuất, đồng thời kết nối đến các địa phương khác để tiêu thụ sản phẩm.
Kết cấu hạ tầng giao thông đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện thuận
lợi để phát triển công nghiệp. Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng giao thông giúp kết
nối tới các khu, điểm du lịch, rút ngắn thời gian di chuyển trên đường, giúp
cho du khách có thể dễ dàng tiếp cận các trung tâm du lịch của tỉnh. Trong giai
đoạn 2015-2020, GRDP tăng bình quân của tỉnh là 8,03%/năm, thuộc nhóm tỉnh tăng
trưởng cao của khu vực đồng bằng sông Hồng.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh sang công nghiệp, dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng
công nghiệp đạt 22,03%/năm, dịch vụ tăng 6,92%/năm. Trong đó, việc phát triển kết
cấu hạ tầng giao thông được xác định là nền tảng, góp phần không nhỏ trong kết
quả tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
Tiếp tục quan tâm đầu tư hạ tầng
giao thông trong giai đoạn tới
Bên
cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung đến nay hệ thống kết cấu hạ tầng giao
thông của tỉnh vẫn còn còn thiếu và nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển để tiến tới mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng chưa đảm bảo tính cân đối giữa các hình thức, hệ thống đường
bộ cao tốc mới bước đầu hình thành; hệ thống đường sắt đã lạc hậu, chưa đầu tư
được đường sắt tốc độ cao; đường thủy nội địa chưa được khôi thông luồng tuyến;
hệ thống cảng biển chưa được khai thác... Do khó khăn về nguồn vốn nên hệ thống
hạ tầng giao thông hiện hữu chưa được bảo trì, sửa chữa kịp thời làm ảnh
hưởng đến tuổi thọ và chất lượng khai thác.
Tiếp bước những
thành tựu đã đạt được suốt 30 năm tái lập tỉnh, trong thời gian tới, ngành Giao
thông vận tải Ninh Bình xác định tiếp tục huy động tối đa mọi nguồn lực, thu
hút nguồn vốn, tập trung ưu tiên đầu tư, cải tạo,
nâng cấp, mở rộng các công trình giao thông quan trọng, huyết mạch có tính chất
kết nối vùng, liên vùng, kết nối khu du lịch trọng điểm, khu, cụm công nghiệp để
thu hút phát triển công nghiệp, du lịch, phát triển mở rộng không gian đô thị,
tạo dư địa và động lực phát triển kinh tế xã hội. Phối hợp với Bộ GTVT, các Bộ,
ngành Trung ương để đầu tư xây dựng các tuyến cao tốc, Quốc lộ như: Nâng
cấp, cải tạo các tuyến đường tỉnh ĐT.482, đường Đông - Tây, đường Bái Đính - Ba
Sao; tuyến đường bộ ven biển; đường cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng; Xây mới các
Bến xe khách đô thị Ninh Bình theo quy hoạch; Nạo vét luồng tuyến Đường thuỷ nội
địa... Cùng với xây dựng hạ tầng trọng điểm là phát triển giao thông địa
phương, giao thông nông thôn, phối hợp lồng ghép các chương trình, dự án,
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới để từng bước làm đường đến
các thôn, bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa, từng bước hoàn thiện hệ thống kết cấu
hạ tầng giao thông.
Để thực hiện những
giải pháp đó, cần có sự chung sức, vào cuộc của các cấp, các ngành, các thành
phần kinh tế, thành phần xã hội và người dân trong toàn tỉnh. Hướng tới xây dựng
hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông hoàn chỉnh, năng động, bền vững; làm tiền đề, tạo động lực cho các ngành kinh tế khác; đóng góp ngày càng hiệu quả hơn cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh và sự nghiệp CNH- HĐH đất nước./.
CTV Thu Dung