Mục tiêu và giải pháp phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng tại Ninh Bình
Về cơ chế, chính sách: Lồng ghép
có hiệu quả các cơ chế, chính sách của Trung ương; chương trình, kế hoạch, Nghị
quyết của Tỉnh đã ban hành.
Triển khai thực hiện các chính
sách trong việc phát triển hoạt động du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí
trong các loại rừng đảm bảo khả thi và phù hợp với địa phương, huy động được
các nguồn lực xã hội hóa, nhưng không làm thay đổi mục tiêu, chức năng chính của
từng khu rừng. Thu hút đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải
trí trong rừng, liên kết theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến sản phẩm
dược liệu trên địa bàn tỉnh. Tập trung nghiên cứu, đánh giá việc thực hiện các
cơ chế, chính sách về lĩnh vực lâm nghiệp và các lĩnh vực khác có liên quan để
tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các
cơ chế, chính sách phù hợp với tình hình thực tế, giải quyết kịp thời những khó
khăn, vướng mắc.
Về quản lý rừng: Thực hiện quản
lý rừng bền vững; khai thác, sử dụng rừng gắn với bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên, nâng cao giá trị kinh tế, giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng; đảm bảo
quá trình xây dựng phương án quản lý và tổ chức các hoạt động quản lý bảo vệ và
phát triển rừng có sự tham gia rộng rãi của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư. Tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm quy hoạch tỉnh,
quy hoạch lâm nghiệp quốc gia đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đa dạng hóa
các hình thức tổ chức sản xuất như: liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp
với chủ rừng trong việc trồng, khai thác, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm gỗ,
lâm sản ngoài gỗ và dược liệu nhưng cần đảm bảo năng suất và chất lượng cao, với
sự tham gia của các thành phần kinh tế; nâng cao hiệu quả kinh tế, chú trọng
phát triển lâm nghiệp đa mục đích (gỗ, lâm sản ngoài gỗ, dịch vụ); nông, lâm,
ngư kết hợp trên một đơn vị diện tích.
Về khoa học và công nghệ: Áp dụng
khoa học công nghệ vào sản xuất từ khâu chọn, tạo giống, kiểm soát chất lượng
nguồn giống; thực hiện các biện pháp kỹ thuật nhằm tăng năng suất và chất lượng
rừng trồng nhưng vẫn đảm bảo thân thiện môi trường theo hướng bền vững. Ứng dụng
khoa học công nghệ để phát huy tối đa các giá trị của hệ sinh thái rừng; phát
triển các loài cây lâm sản ngoài gỗ, cây dược liệu có giá trị kinh tế cao, gắn
với tri thức bản địa của cộng đồng địa phương; ứng dụng các công nghệ tiên tiến
trong quản lý cơ sở dữ liệu, cấp mã số vùng nuôi trồng, truy xuất, xác định nguồn
gốc, chế biến và bảo quản lâm sản hợp pháp nhằm đáp ứng các yêu cầu của thị trường
trong nước và quốc tế. Tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, khuyến lâm, khuyến
công,... nhằm nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và kỹ năng cho người làm
nghề rừng, từ đó tăng năng suất lao động, nâng cao giá trị gia tăng trong các
khâu trong sản xuất, khai thác, chế biến, bảo quản và thị trường các sản phẩm
lâm sản, góp phần nâng cao giá trị, hiệu quả sản xuất của ngành lâm nghiệp.
Về tổ chức sản xuất: Đánh giá, tổng
kết các mô hình phát triển kinh tế nông, lâm, ngư kết hợp; mô hình hợp tác,
liên kết sản xuất trong lâm nghiệp giữa tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng
với nhà khoa học và doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác và các hiệp hội ngành
hàng,...; mô hình về trồng rừng gỗ lớn, chuyển hóa từ rừng trồng gỗ nhỏ sang
kinh doanh gỗ lớn; mô hình về phục hồi, nâng cao chất lượng rừng tự nhiên; phát
triển các mô hình lâm sản ngoài gỗ, dược liệu có giá trị; các mô hình du lịch
sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí, kết hợp với phát triển các sản phẩm đặc sản địa
phương theo vùng miền nhằm phát huy các giá trị văn hóa đặc trưng của mỗi địa
phương để nhân rộng các mô hình phù hợp với tiềm năng, lợi thế của địa phương. Tiếp
tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các ban quản lý rừng;
tổ chức giao đất, giao rừng, khoán bảo vệ rừng theo quy định của pháp luật lâm
nghiệp, nhất là diện tích rừng đang giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý. Xây
dựng một số mô hình đồng quản lý rừng, gắn kết cộng đồng địa phương tham gia và
chia sẻ lợi ích trong hoạt động sản xuất lâm nghiệp; xây dựng và thực hiện các
quy ước, hương ước bảo vệ, phát triển rừng; phát triển hài hòa giữa sản xuất gỗ,
lâm sản ngoài gỗ,... để duy trì và phát triển sinh kế bền vững của người làm
nghề rừng.
Đẩy mạnh triển khai Chương trình OCOP, chương
trình phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn trong xây dựng nông thôn mới gắn
với hệ sinh thái rừng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế rừng bền vững tại địa
phương. Thúc đẩy liên kết vùng, phát triển kinh tế lâm nghiệp gắn với liên kết
vùng sinh thái, phát triển làng nghề, đầu tư kết cấu hạ tầng, nhất là đường lâm
nghiệp, để khai thác tổng hợp các giá trị của hệ sinh thái rừng.
Về đào tạo, tập huấn, tuyên truyền
và nâng cao năng lực.
Xây dựng và thực hiện kế hoạch
tuyên truyền, hướng dẫn các chủ rừng sử dụng giống có năng suất, chất lượng
cao, áp dụng biện pháp trồng rừng thâm canh gỗ lớn, gỗ có chứng nhận quản lý rừng
bền vững, mã số vùng trồng. Tổ chức đào tạo, nâng cao năng lực cho lực lượng chức
năng trong kiểm tra, kiểm soát, truy xuất nguồn gốc lâm sản; tăng cường năng lực
cho các bên liên quan, đặc biệt là chủ rừng, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá
nhân và các hộ nhận khoán bảo vệ rừng về quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn thu từ
dịch vụ môi trường rừng. Tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, quy trình, quy chuẩn,
tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật nuôi trồng, chăm sóc cây trồng, vật nuôi
nhằm phát triển các mô hình kinh tế nông, lâm, ngư kết hợp, lâm sản ngoài gỗ,
dược liệu, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí trong các hệ sinh thái rừng
gắn với duy trì, phát triển tri thức, văn hóa bản địa của cộng đồng địa phương.
Về hợp tác quốc tế: Tăng cường tiếp
cận, hợp tác quốc tế theo cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước về huy động
nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân, hợp tác công tư cho phát triển rừng gỗ
lớn, phát triển lâm sản ngoài gỗ, dược liệu, quản lý rừng bền vững, phục hồi rừng
tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, hỗ trợ cộng đồng dân cư địa phương.
Thúc đẩy thực hiện các sáng kiến,
cơ chế tài chính mới như: tài chính khí hậu, tín dụng xanh; mở rộng phạm vi dịch
vụ môi trường rừng, tiếp cận thị trường các - bon rừng quốc tế, nhằm huy động
nguồn tài chính cho quản lý rừng bền vững, bảo tồn và phục hồi rừng, hỗ trợ
nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống của cộng đồng dân cư địa phương và đồng
bào dân tộc thiểu số. Triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án
và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để xây dựng và phát triển thương hiệu, chỉ
dẫn địa lý và truy xuất nguồn gốc các sản phẩm nông, lâm, thủy sản không gây mất
rừng và suy thoái rừng; phù hợp với các tiêu chuẩn và hệ thống chứng nhận sản
phẩm nhằm đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.